Mục tiêu: Để tóm tắt và đánh giá y văn đã được xuất bản liên quan đến boceprevir và telaprevir, và nhằm cung cấp cho các nhà lâm sàng với các gợi ý để dùng trong các bệnh nhân viêm gan do virus C mãn tính.
Phương pháp: Một chiến lược tìm tòi được chuẩn hóa đã được thực hiện bằng dùng MEDLINE, EMBASE, Google Scholar và các dữ liệu Tóm tắt về Sử dụng thuốc Quốc tế bằng cách dùng các từ để tìm kiếm "boceprevir", "telaprevir", "boceprevir and hepatitis C" và "telaprevir and hepatitis C". Một cuốn cẩm nang tìm kiếm về các tài liệu tham khảo đã được thực hiện để nhận diện các bài báo bị bỏ sót bằng tìm kiếm tài liệu điện tử. Các nghiên cứu được bao gồm trong tổng quan này nếu các tài liệu này đánh giá hoặc boceprevir hoặc telaprevir trong việc so sánh với chăm sóc chuẩn ở các bệnh nhân viêm gan C mãn tính.
Kết quả: Các nghiên cứu được phát hiện đã đánh giá boceprevir và telaprevir ở bệnh nhân viêm gan C genotype-1. Ở các bệnh nhân chưa được điều trị trước lẫn bệnh nhân đã trải qua kinh nghiệm điều trị, tỷ lệ đáp ứng virus bền vững được hoàn thành thường hơn với boceprevir hoặc telaprevir trong sự kết hợp với pegylated interferon và ribavirin được so với pegylated interferon và ribavirin đơn thuần. Cả hai thuốc đều được dung nạp tốt, với hiện diện thiếu máu như hầu hết tác dụng ngoại ý làm hạn chế điều trị.
Kết luận: Boceprevir và telaprevir sẽ làm cách mạng việc quản lý bệnh nhân mắc viêm gan C kiểu gene 1 và hầu như giảm một cách thích hợp gánh nặng bệnh giai đoạn cuối trên toàn thế giới. Tuy nhiên, những giới hạn lâm sàng hiện nay gồm việc thiết lập việc kéo dài điều trị thích hợp và chi phí hiệu quả, và sử dụng trong các quần thể đặc biệt ngay như các bệnh nhân ghép cơ quan và các bệnh nhân đồng nhiễm HIV. Nghiên cứu tương lai là cần thiết để làm rõ những bế tắc lâm sàng này nhằm xác định rõ ràng vai trò của các thuốc này trong quản lý viêm gan do virus C.
Tài liệu tham khảo
KJ Wilby, N Partovi, J-AE Ford, E Greanya, EM Yoshida.(2012). Review of boceprevir and telaprevir for the treatment of chronic hepatitis C. Canadian Journal of Gastroenterology, April 2012, Volume 26 Issue 4: 205-210