Vấn đề nghiên cứu: Không chắc chắn liệu rằng những đơn dòng vô tính đặc biệt của nhiễm tụ cầu vàng đề kháng và nhạy với methicillin gây bệnh xâm nhập xảy ra ở cộng đồng (cMRSA/cMSSA) khác nhau về tính độc không.
Phương pháp: Những trường hợp cMRSA và cMSSA được phát hiện trong nghiên cứu tiến cứu. Phân tích Các thành phần Chủ yếu được dùng để sắp xếp một chỉ số độ nặng của bệnh (illness severity score: ISS) từ các dữ liệu lâm sàng gồm tỷ lệ tử vong 30 ngày, yêu cầu với sự hổ trợ hồi sức bệnh viện, sự có mặt của nhiễm khuẩn máu và thời gian nằm viện. Trung bình của chỉ số độ nặng của bệnh (ISS) đối với mỗi đơn dòng vô tính của tụ cầu vàng (được dựa lên MLST) được so sánh với kiểu gene dựa lên vi sắp xếp (microarray) DNA của nó.
Kết quả: Phân tích 57 trường hợp nhiễm cMRSA và 50 trường hợp nhiễm cMSSA. Mười đơn dòng vô tính gây 82 (77%) trường hợp trong số các trường hợp nhiễm này và có một ISS được tính toán. Cụm gene độc tố đường ruột (egc), và gene của collagen adhesin (cna) được tìm thấy trong 4 của 5 đơn dòng vô tính được phân hạng cao nhất (ST47-MSSA, ST30-MRSA-IV[2B], ST45-MSSA và ST22-MRSA-IV[2B]) được so sánh với 0 và 1 của các đơn dòng vô tính phân 5 hạng thấp nhất. Các đơn dòng vô tính cMSSA gây bệnh nặng hơn các đơn dòng vô tính cMRSA. Các gene lukF/lukS Panton-Valentine leukocidin (PVL) đã không tương quan trực tiếp với ISS, là hiện diện trong các đơn dòng vô tính độc phổ biến trong hạng thứ 2, 4 và 10.
Kết luận: Độ nặng lâm sàng của nhiễm cMRSA và cMSSA xâm nhập là có thể qui thuộc một cách thích hợp với toàn bộ kiểu gene của các chủng hơn là một yếu tố quyết định độc tính được giả định ngay như PVL.
Tài liệu tham khảo
, , , , , , , ,
, and .92012). Illness severity in community-onset invasive Staphylococcus aureus infection and the presence of virulence genes. J Infect Dis. (2012) doi: 10.1093/infdis/jis279 First published online:April 5, 2012