Cơ sở: Lượng tiểu cầu thấp vào lúc bắt đầu điều trị (<150.000/ μL) làm tăng nguy cơ giảm tiểu cầu nặng trong quá trình điều trị (số lượng tiểu cầu <50.000/μL) ở bệnh nhân viêm gan C mạn tính (CHC) trải qua liệu pháp kháng virus, mà có thể ngưng điều trị.
Phương pháp: hồ sơ y tế của 125 bệnh nhân CHC được điều trị bằng liệu pháp kháng virus theo chuẩn chăm sóc đã được xem xét, với việc kiểm tra theo dõi thường xuyên theo. Sự giảm lượng tiểu cầu sớm đã được định nghĩa khi giảm tiểu cầu suốt trong 2 tuần điều trị đầu tiên.
Kết quả: giảm tiểu cầu nặng đã phát triển trong 12,8% bệnh nhân giảm tiểu cầu lúc bắt đầu điều trị, và đã dự đoán một tỷ lệ bỏ điều trị cao hơn. Phân tích đa biến đã cho thấy số lượng tiểu cầu lúc bắt đầu điều trị < 100,000/μL và giảm tiểu cầu nhanh ( > 30% giảm trong 2 tuần đầu tiên) đã kết hợp một cách có ý nghĩa với giảm tiểu cầu nặng (P < 0,001 và 0,003, tương ứng OR, 179,22 và 45,74). Trong những bệnh nhân này, lượng tiểu cầu khi bắt đầu điều trị ≥ 100,000/μL và lượng tiểu cầu giảm chậm trong quá trình điều trị sẽ dự đoán không giảm tiểu cầu nặng (giá trị dự đoán âm tính tương ứng là 95,1% và 96,6%). Trái lại, lượng tiểu cầu vào lúc bắt đầu điều trị <100,000/μL đã kết hợp với sự giảm lượng tiểu cầu đầu nhanh chóng đã dự đoán giảm tiểu cầu nặng (giá trị dự báo dương tính là 100%).
Kết luận: Đối với bệnh nhân CHC trong quá trình điều trị với thuốc kháng vi-rút, số lượng tiểu cầu lúc bắt đầu điều trị <100.000/μL và suy giảm lượng tiểu cầu sớm có thể xác định bệnh nhân có nguy cơ cao phát triển giảm tiểu cầu nặng trong quá trình điều trị.
Tài liệu tham khảo
Kung-Hung Lin, Ping-I Hsu, Hsien-Chung Yu, Chun-Ku Lin, Wei-Lun Tsai, Wen-Chi Chen, Hoi-Hung Chan and Kwok-Hung Lai. (2012). Lin et al.: Factors linked to severe thrombocytopenia during antiviral therapy in patients with chronic hepatitis c and pretreatment low platelet counts. BMC Gastroenterology 2012 12:7. doi:10.1186/1471-230X-12-7