Phát hiện sớm các các ổ di bệnh ở các bệnh nhân bị nhiễm khuẩn Gram (+) là quan trọng vì tỷ lệ mắc và tử vong cao hơn khi có sự hiện diện của ổ di bệnh này, có lẽ do sự loại bỏ không hoàn toàn của các ổ nhiễm âm thầm trên lâm sàng trong quá trình điều trị ban đầu.
Chúng tôi thực hiện một nghiên cứu tiến cứu ở 115 bệnh nhân nhiễm khuẩn máu do tụ cầu vàng hoặc các Streptococcus sp. với ít nhất 1 yếu tố nguy cơ cho sự phát triển của ổ di bệnh thứ phát, chẳng hạn như mắc bệnh tại cộng đồng, điều trị muộn, cấy máu dương tính liên tục > 48 giờ, và sốt tồn tại > 72 giờ sau khi bắt đầu điều trị. Một sự tìm kiếm chuyên sâu đối với ổ di bệnh thứ phát được thực hiện gồm chụp cắt lớp phát xạ positron 18F-fluorodeoxyglucose kết hợp với chụp cắt lớp vi tính quét liều thấp để tối ưu hóa tương quan giải phẫu (FDG-PET/CT) và siêu âm tim trong 2 tuần đầu nhập viện.
Ổ di bệnh thứ phát được phát hiện trong 84/115 (73%) bệnh nhân. Viêm nội tâm mạc (22 trường hợp), viêm nội mạc mạch máu nhiễm khuẩn (19 trường hợp), áp xe phổi (16 trường hợp), và viêm đốt sống (spondylodiscitis) (11 trường hợp) thường được chẩn đoán là có ổ di bệnh thứ phát nhất. Tỷ lệ mới mắc ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát tương tự nhau ở các bệnh nhân nhiễm khuẩn máu do Streptococcus spp và bệnh nhân nhiễm khuẩn máu do S. aureus. Các dấu hiệu và triệu chứng giúp sự chú ý của bác sĩ trong việc chẩn đoán ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát chỉ chiếm thiểu số trường hợp (41%). Một đường vào (portal of entry) chưa được biết, điều trị chậm trễ > 48 giờ, và sự hiện diện của vật lạ là những yếu tố nguy cơ có ý nghĩa đối với việc phát triển các ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát. Nồng độ protein C phản ứng vào lúc nhập viện cao hơn có ý nghĩa ở các bệnh nhân có ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát (74 mg/L so với 160 mg/L).
FDG-PET/CT là kỹ thuật đầu tiên dùng để xác định vị trí của các ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát trong 35/115 (30%) bệnh nhân. Vì chỉ có một thiểu số các ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát kèm theo các dấu hiệu hoặc triệu chứng lâm sàng gợi ý, số lượng của ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát đã phát hiện bằng chụp cắt lớp vi tính, siêu âm, và chụp cộng hưởng từ hạt nhân vẫn còn thấp.
Tỷ lệ tử vong có xu hướng thấp hơn ở các bệnh nhân không có biến chứng nhiễm khuẩn so với bệnh nhân có ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát (tương ứng 16% so với 25%). Năm trong số 31 bệnh nhân (16%) chết mà không có ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát. Hồi cứu 3/5 bệnh nhân có thể có ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát mà không thể chẩn đoán được khi còn sống. Ở các bệnh nhân nhiễm khuẩn máu do vi khuẩn Gram (+) và có một nguy cơ cao phát triển biến chứng do nhiễm khuẩn, một đề cương được cấu trúc gồm cả siêu âm tim và FDG-PET/CT nhằm vào việc phát hiện ổ di bệnh nhiễm khuẩn thứ phát có thể góp phần vào việc cải thiện kết quả.
Ghi chú
FDG-PET/CT = 18F-fluorodeoxyglucose-positron emission tomography in combination with low-dose computed tomography
Tài liệu tham khảo
Vos, Fidel J.; Kullberg, Bart Jan; Sturm, Patrick D.; Krabbe, Paul F. M.; van Dijk, Arie P. J.; Wanten, Geert J. A.; Oyen, Wim J. G.; Bleeker-Rovers, Chantal P.(2012). Metastatic Infectious Disease and Clinical Outcome in Staphylococcus aureus and Streptococcus species Bacteremia. Medicine: March 2012 - Volume 91 - Issue 2 - p 86–94, doi: 10.1097/MD.0b013e31824d7ed2