Vấn đề nghiên cứu: Các chiến lược trị liệu kháng nguyên tối ưu trong nhiễm Haemophilus vẫn còn được cần đến. Vì vậy, Tỷ lệ tử vong trên số mắc vào trong vòng 30 ngày (CFR) của nhiễm khuẩn máu Haemophilus và hiệu lực của các chế độ điều trị kháng sinh khác nhau được nghiên cứu hồi cứu từ các hồ sơ y lý.
Kết quả: 105 đợt liên tiếp đã được phát hiện (tuổi trung vị: 69 tuổi, với chỉ 4 trẻ em < 16 tuổi), 72% là do HI không thể xác định type -, 16% là do H. Influenzae định type được, và 11% với các loài Haemophilus khác. Viêm phổi là tiêu điểm nguyên phát phổ biến nhất (trong 48%), và 58% bệnh nhân có chỉ số bệnh cùng mắc Charlson (Charlson comorbidity index) >1. Trị liệu kháng sinh xác định ở 26 trường hợp với benzylpenicillin, ở 12 trường hợp với aminopenicillins, trong 50 trường hợp với cefuroxime và 16 trường hợp với các kháng sinh phổ rộng, trong khi 1 trường hợp giảm tạm thời bị chết chưa được bắt đầu điều trị kháng sinh. Trong khi việc dùng các kháng sinh phổ rộng đã là liên quan tới độ nặng của bệnh (nhập viện đến đơn vị chăm sóc – điều trị tăng cường, cần đến việc hô hấp hổ trợ hoặc chạy thận nhân tạo, số nhiễm khuẩn), không có khác bệt ý nghĩa về hình thái lâm sàng đã được biểu thị đối với điều trị bằng benzylpenicillin, aminopenicillin hoặc cefuroxime, ngoại trừ benzylpenicillin hiếm khi được sử dụng với bệnh nhân bị suy giảm miễn dịch. Tỷ lệ tử vong trên số ca bệnh là 22% (23/105). Việc chọn lựa kháng sinh trị liệu theo kinh nghiệm đã không kết hợp có ý nghĩa với tỷ lệ tử vong (điều trị thỏa đáng so với điều trị không thỏa đáng tương ứng là 23% (21/93) so với 17% (2/12), P > 0,05). Trái lại, kháng sinh trị liệu xác định với cefuroxime hoặc aminopenicillins đã tạo kết quả trong một tỷ lệ tử vong thấp hơn có ý nghĩa so với điều trị bằng benzylpenicillin tương ứng với 12% (6/50) hoặc 0% (0/12) so với 39% (10/26), kiểm định Log rank P < 0,02). Lúc điều chỉnh đã được thực hiện đối với các yếu tố nguy cơ được phát hiện trong phân tích hồi qui song biến, vẫn được điều trị với cefuroxime đã được tìm thấy là được kết hợp với một tỷ lệ tử vong so với ca bệnh thấp hơn có ý nghĩa đối với benzylpenicillin: OR: 0,21 (0,06 – 0,69), P = 0,01 (nhiễm khuẩn máu mắc tại bệnh viện), OR: 0,27 (0,08 – 0,91), P = 0,04 (nhiều đợt đa vi khuẩn), OR: 0,16 (0,04 – 0,59), P = 0,006 (nhập viện ở đơn vị chăm sóc – điều trị tăng cường), OR: 0.22 (0.06-0.82), P=0.02 (alcohol abuse), OR: 0.15 (0.04-0.60), P=0.008 (altered mental state), OR: 0,22 (0,07 – 0,71), P = 0,01 (nhiệt độ < 380C), OR: 0,23 (0,07 – 0,79), P = 0,02 (sốc nhiễm khuẩn), OR: 0,21 (0,06 – 0,69), P = 0,01 (thông khí cơ học).
Kết luận: Những kết quả nghiên cứu gợi ý rằng, sau khi kiểm định sự nhạy cảm cefuroxime hoặc aminopenicillins có thể là thích hợp với benzylpenicillins như là cách điều trị xác định đối với nhiễm khuẩn máu do Haemophilus.
Tài liệu tham khảo
Thønnings S, Ostergaard C.(2012). Treatment of Haemophilus bacteremia with benzylpenicillin is associated with increased (30-day) mortality. BMC Infectious Diseases 12 (1), 153 (Jul 2012)
Bs Phan Quận – Văn Phòng Hội Truyền Nhiễm Việt Nam