Tụ cầu vàng vi khuẩn duy nhất có tiềm năng gây tử vong cao có thể gây nhiễm khuẩn máu, hình thành nên các biến chứng do các ổ di bệnh thứ phát gây ra. Tụ cầu vàng có các đặc điểm mà phân biệt hình thái lâm sàng của nó với các tác nhân gây nhiễm khuẩn máu khác.
Các đặc điểm này gồm các proteins gắn với màng tế bào cho phép vi khuẩn gây nhiễm các mô ở tất cả các phần của cơ thể. Các yếu tố nguy cơ đối với phát triển nhiễm khuẩn máu gây các biến chứng gồm mắc phải tụ cầu ở cộng đồng, một tiền sử viêm nội tâm mạc có trước, các thủ tục truyền tĩnh mạch mới đây như chạy thận nhân tạo, cấu trúc tim bất thường/các bất thường van tim, và sự có mặt của ống thông tĩnh mạch. Các dấu hiệu lâm sàng có thể gồm bất cứ mô nào của cơ thể (ví dụ, các chấm Roth ở mắt, các biểu hiện thuyên tắc mạch, áp xe cơ đáy chậu, viêm xương – tủy xương sống). Phân biệt được giữa nhiễm khuẩn máu tụ cầu có biến chứng và không biến chứng là một mục tiêu quan trọng. Các yếu tố dự đoán nhiễm khuẩn máu tụ cầu có biến chứng gồm một cấy máu dương tính tiếp theo 48 giờ đến 96 giờ, khởi phát ở cộng đồng, sốt duy trì vào giờ thứ 72 giờ, các tổn thương ở da, và biểu hiện bất thường trên điện tâm đồ xuyên thực quản.
Tất cả bệnh nhân nhiễm khuẩn máu tụ cầu sẽ được điều trị ít nhất 4 tuần. Chỉ các trường hợp xác định rõ, dưới điều kiện chăm sóc của một chuyên gia bệnh nhiễm trùng, bệnh nhân nhiễm khuẩn máu do tụ cầu sẽ được điều trị một thời kỳ ngắn hơn hay không.
Theo Corey, G. Ralph. (2011). Staphylococcus aureus Bacteremia and Endocarditis: The Role of Diagnostic Evaluation. Infectious Diseases in Clinical Practice: September 2011 - Volume 19 - Issue 5 - pp 307-312. doi: 10.1097/IPC.0b013e3182309603. NFID Clinical Updates