Viêm gan B mãn tính là nguyên nhân chính của ung thư tế bào gan nguyên phát. Phòng ngừa sơ khởi của nhiễm viêm gan B bằng chủng ngừa là hiệu quả trong việc giảm tỷ lệ mới mắc ung thư tế bào gan nguyên phát.
Ở những người mắc viêm gan B mãn tính, có hai dạng điều trị đã được thừa nhận là tiêm interferon-adưới da trong một thời gian giới hạn và các thuốc tương tự nucleos(t)ide được dùng bằng đường uống trên cơ sở lâu dài. Các điều trị này hiệu lực trong việc ức chế hoạt động của virus và cải thiện các dấu ấn của bệnh trong những nghiên cứu ngắn ngày. Hệ quả lâu dài trong việc phát triển ung thư gan với hai kiểu điều trị này hình như là khác nhau. Tuy nhiên chưa có những nghiên cứu so sánh một cách trực tiếp hiệu lực của interferon-avà các thuốc tương tự nucleos(t)ide analogues. Những so sánh qua các nghiên cứu chắc chắn bị giới hạn bởi những khác biệt trong các đặc điểm lúc bắt đầu của các nghiên cứu thuần tập. Các nghiên cứu theo dõi lâu dài của trị liệu bằng interferon-acho thấy những kết quả không thống nhất với nhau. Tác dụng lợi ích trong việc giảm phát triển ung thư gan được quan sát chủ yếu ở những người đáp ứng điều trị người biểu hiện xơ gan trước. Các nghiên cứu lâu dài đối với lamivudine (và adefovir) cho thấy một sự giảm phù hợp trong phát triển ung thư gan ở các bệnh nhân có, và không xơ gan. Hệ quả lợi ích này bị mòn mỏi do sau phát triển kháng thuốc. Những tác dụng của các thuốc tương tự nucleos(t)ide mới hơn, với độ tác dụng mạnh cao hơn và nguy cơ phát triển đề kháng rất thấp thì chưa từng được biết đến. (HEPATOLOGY 2012.).
Copyright © 2012 American Association for the Study of Liver Diseases.
PMID: 22806323 [PubMed - as supplied by publisher]
Tài liệu tham khảo
, .(2012).Prevention of hepatitis B virus-related hepatocellular carcinoma with antiviral therapy. 2012 Jul 13. doi: 10.1002/hep.25937. [Epub ahead of print]
Bs Phan Quận – Văn Phòng Hội Truyền Nhiễm Việt Nam