Cơ sở của vấn đề: Người ta thực sự chưa biết được thời gian kéo dài của sự bảo vệ cho trẻ em và người lớn (gồm cả nhân viên y tế) sau một loạt chủng ngừa viêm gan B sơ khởi
Phương pháp: Để xác định sự bảo vệ của vắc-xin viêm gan B, người bản địa Alaska đã nhận thuốc chủng ngừa viêm gan B dẫn xuất từ huyết tương khi họ được 6 tháng tuổi, và rồi đã được xét nghiệm để tìm kháng thể viêm gan B bề mặt (anti-HBs) 22 năm sau. Những người với mức nồng độ kháng thể < 10 mIU/mL được nhận 1 liều vắc-xin viêm gan B tái tổ hợp và được đánh giá trên cơ sở các số đo nồng độ anti-HBs vào 10-14 ngày, 30-60 ngày, và 1 năm sau liều chủng tăng cường đó.
Kết quả: Trong số 493 người tham gia, 60% (298) đã có một mức độ anti-HBs ≥ 10 mIU/mL. Một liều chủng tăng cường được dùng cho 164 người, và 77% đã đáp ứng với một nồng độ anti-HBs ≥ 10 mIU / ml vào 10-14 ngày sau, đạt đến 81% vào ngày thứ 60. Đáp ứng với một liều tăng cường tương quan thuận với người tuổi trẻ hơn, đáp ứng anti-HBs đỉnh sau khi chủng ngừa sơ bộ, và sự hiện diện anti-HBs có thể phát hiện được trước khi thêm mũi chủng tăng cường. Xem xét những người có nồng độ anti-HBs ≥ 10 mIU/ml vào lúc 22 năm và những người đã đáp ứng với liều chủng tăng cường, sự bảo vệ đã được chứng minh ở 87% người tham gia. Đã không phát hiện ra bệnh viêm gan B cấp tính hoặc mãn tính
Kết luận: Sự bảo vệ đạt được bằng chủng ngừa sơ bộ với thuốc chủng ngừa viêm gan B được sản xuất từ huyết tương trong thời thơ ấu và trưởng thành kéo dài ít nhất 22 năm. Do đó không cần thiết phải tiêm một liều vắc xin tăng cường
Tài liệu tham khảo
, , , , , , ,, and . (2009). Antibody Levels and Protection after Hepatitis B Vaccine: Results of a 22-Year Follow-Up Study and Response to a Booster Dose. Journal of Infectious Diseases jid.oxfordjournals.org. J Infect Dis. (2009) 200 (9): 1390-1396. doi: 10.1086/606119